17/10/2021
PGS.TS Nguyễn Mạnh An, PGS.TS Hoàng Thanh Hải, TS. Trần Quang Dũng [1]
Thời Hồng Đức (1470-1497) là thời kỳ thái bình, thịnh trị bậc nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, gắn liền với tên tuổi và những cải cách toàn diện, sáng tạo của vua Lê Thánh Tông. Rất hiếm có vị vua nào lại để lại nhiều thành tựu rực rỡ, mang dấu ấn thời đại: “Luật Hồng Đức”, “Văn thơ Hồng Đức”, “Bản đồ Hồng Đức”, “Quan chế Hồng Đức”, “Đê điều Hồng Đức”, “Giáo dục, khoa cử Hồng Đức”… như Lê Thánh Tông, trong đó, giáo dục, khoa cử, đào tạo, bồi dưỡng hiền tài đã đạt đến đỉnh cao, trước và sau đó không thời nào bằng. Nhà sử học Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí đã ca ngợi: “Khoa cử các đời thịnh nhất là đời Hồng Đức. Cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng: đời sau càng không thể theo kịp. Kẻ sĩ bây giờ học rộng mà không cần phải tìm tòi tỉ mỉ. Tài được đem ra ứng dụng mà không bỏ rơi. Trong nước không bỏ sót nhân tài. Triều đình không dùng người kém. Bởi thế điển chương được thực hiện đầy đủ, chính trị ngày càng thịnh hưng” (1).
Dù đã cách xa hơn 5 thế kỷ, nhưng những kinh nghiệm, bài học bồi dưỡng hiền tài của Lê Thánh vẫn còn nguyên giá trị đối với công cuộc chấn hưng giáo dục đất nước hiện nay.
1. Phương châm đào tạo, bồi dưỡng hiền tài của Lê Thánh Tông dựa trên những yếu tố tích cực của tưởng Nho giáo và tinh thần dân tộc
Thời Lý - Trần, Nho giáo đã bắt đầu được thực hiện tích cực, nhưng vị trí của nho sĩ, nho quan nhìn chung vẫn còn thấp kém. Đến thời Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, trong vài thập niên đầu thế kỷ XV, ảnh hưởng của Nho giáo đối với tầng lớp nắm quyền ở triều đình chưa thật sâu sắc. Theo Đại Việt sử ký toàn thư: “Bấy giờ quan tể tướng đều là đại thần khai quốc, không thích Nho thuật, chuyên lấy việc sổ sách, giấy tờ và kiện tụng để xét thành tích của các quan, bọn lại thuộc phần nhiều chiều hót quan trên, cho nên quan trọng- ngoài có chức nào khuyết thì tiến cử để bổ dụng. Bọn hãnh tiến chán ghét học thuật, theo nghề đao bút. Giám sinh cũng muốn bỏ việc học hành mà xin làm lại” (2).
Rút kinh nghiệm của ông cha, Lê Thánh Tông lên ngôi, đã khẳng định vị trí của Nho giáo. Các nhà nghiên cứu cho rằng, thế kỷ XV là thế kỷ độc thịnh của hệ tư tưởng Nho giáo, trực tiếp chi phối mọi hoạt động của xã hội. Sự lựa chọn tư tưởng Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống của nhà nước thời Hậu Lê nói chung và thời đại Lê Thánh Tông nói riêng có cơ sở từ hoàn cảnh lịch sử- xã hội lúc bấy giờ và được đánh giá là một bước phát triển. Mặc dầu tôn sùng Nho giáo, một nhà Lý học theo phái Tống Nho, nhưng Lê Thánh Tông biết kết hợp tư tưởng Nho giáo, tư tưởng đức trị và lễ trị với tư tưởng pháp trị, trên một tinh thần và ý thức dân tộc sâu sắc. Một số nhà nghiên cứu nước ngoài khi nghiên cứu bộ luật Hồng Đức, đã đối chiếu và so sánh, trong 722 điều luật, có đến trên 400 điều hoàn toàn không có trong các bộ luật Hán- Đường- Minh và là những điều luật độc đáo, riêng biệt của Việt Nam (3). Nhà nghiên cứu văn hóa Phan Ngọc nhận xét: “Nho giáo của Lê Thánh Tông là sự vận dụng Tống Nho vào thực tế xã hội Việt Nam trên tinh thần dân tộc và sáng tạo, có thể coi đó là thứ Nho giáo Việt Nam đời Lê Thánh Tông”(4). Vì vậy, Nho giáo thời kỳ này đã phát huy được tính tích cực, biến thành những hành động an dân có hiệu quả, không đối lập với tinh thần và truyền thống dân tộc, trong đó có truyền thống văn hóa- giáo dục. Xã hội nước ta thời Lê Thánh Tông đã duy trì được sự ổn định và thịnh vượng trong khuôn khổ chế độ phong kiến. Chính hệ tư tưởng Nho giáo đã góp phần tích cực củng cố nhà nước tập quyền quan liêu, củng cố nền thống nhất của xã hội nông nghiệp, tạo ra một kỷ cương theo lễ và phép trên cơ sở gia đình- gia tộc.
Khẳng định tư tưởng Nho giáo cũng có nghĩa Lê Thánh Tông khẳng định vai trò, vị trí của Nho học. Đây là sự lựa chọn có ý thức, nhằm bổ sung cho văn hóa Đại Việt, gắn với mục đích đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục. Nho học Việt Nam đến thời Lê Thánh Tông đã đạt đến điểm cực thịnh… thời thịnh trị đó đã đem lại vinh quan cho dân tộc. Tính tích cực của Nho giáo là đề cao người đi học, việc học tập, sự nghiệp giáo dục, sung thượng văn hiến, trân trọng thơ ca, âm nhạc… Mục tiêu đào tạo của Nho giáo là tạo ra những con người nhân, nghĩa, lễ, trí, tín (tức là có đạo đức, học vấn, văn hóa). Trong Dụ khuyến học, Lê Thánh Tông đã ca tụng Nho giáo mở ra con đường vinh hoa, phú quý cho người đi học: “Kinh là một thứ sách chép đạo lý, phải dùng sức mà giảng cứu. Sử là pho sách ghi chép việc làm, phải hết lòng mà suy xét, khảo phép tắc của thánh hiền đã dựng nên để tìm cái lẽ đương nhiên của sự lý. Chính lời nói không gì bằng Kinh thi, Kinh thư…Ra hành đạo không gì hơn Lễ Nhạc… Đem văn chương tô điểm đạo vua, lấy đạo đức sinh hòa trị hóa. Giúp dân tôn chúa, ân trạch khắp cả dường thời. Dương danh hiến thân, sự nghiệp ghi còn muôn thuở” (5). Lê Thánh Tông đã sử dụng khoa cử để bổ sung đội ngũ quan lại. Phan Huy Chú đã viết: “Đời Trần đã đặt khoa cử, nhưng sự bổ sung không bắt buộc có khoa cử, chứ không câu nệ đường xuất thân (là khoa giáp) chỉ cần người dùng được… Trong thời Hồng Đức, thi cử chọn được người rất nhiều, bấy giờ quan trong ở đài, viện và quan ngoài ở địa phương đều dùng người đỗ tiến sĩ. Còn giám sinh, nho sinh có trúng trường chỉ bổ các chức phủ, huyện”(6). Như vậy, thời Hồng Đức, nho sĩ chiếm một số lượng lớn trong bộ máy quan liêu. Bộ phận sĩ phu trở thành một đẳng cấp xã hội, là một trong những chỗ dựa của chính quyền nhà nước.
Tầng lớp nho sĩ thời Lê Thánh Tông rất được chú trọng đào tạo, một bộ phận được bổ sung vào bộ máy quan liêu của Nhà nước phong kiến ở Hoàng triều, một bộ phận được dùng để thay thế các võ tướng trong việc cai trị ở địa phương theo phương châm “đức trị” và “văn trị”.
Với đường lối chính trị của mình, tiêu chuẩn chọn lựa hiền tài đời Lê Thánh Tông vẫn là “đức trị” và “văn trị”. Trong bài thơ Quân đạo (Đạo làm vua”, Lê Thánh Tông đã ca ngợi cái đạo của một ông vua sáng, biết cách trị nước, yên dân:
“Hạ dục nguyên nguyên thượng kính thiên
Chế trị bảo bang tư kế thuật.
Thanh lâm quả dục tuyệt du điền.
Bàng cáu luận nghệ phu văn đức,
Khắc cật binh nhung trung tướng quyền”
(Thơ chữ Hán- Quân đạo)
(Dưới dưỡng nuôi trăm họ, trên kính trời. Trị dân, giữ nước thường nghĩ sự noi theo người trước. Chay long, ít ham muốn, bỏ hẳn thói chơi săn bắn. Rộng tìm kẻ tài giỏi để ban bố văn đức. Sắm sửa binh bị coi trọng quyền làm kẻ làm tướng).
Những người bề tôi thì phải tài giỏi, trung, cần:
“Đan trung cảnh cảnh nhật linh lâm.
Trí chủ an dân, nghĩa khái thâm.
Nội minh ngoại phủ hồi thiên lực
Hậu lạc liên ưu Lê thế tâm”
(Thơ chữ Hán - Thần tiệt)
(Lòng son quang minh, nhập tinh soi xét tới. Có nghĩa khí sâu sắc để trung với chúa và an dân… Sức chuyển dời trong nước bình trị, ngoài nước mến yêu. Lòng giúp đời vui sau thiên hạ, lo trước thiên hạ)(7).
Hai bài thơ trên nói lên tiêu chuẩn đạo đức của minh quân, hiền thần. Ngoài những tiêu chuẩn nhân, nghĩa, trung, hiếu, trí, dũng theo quan niệm Nho giáo, còn có một tiêu chuẩn mang tính thời đại là phải quan tâm đến nhân dân, phải vui sau thiên hạ, lo trước thiên hạ. Đúng hơn, đây không chỉ là vấn đề đạo đức, hoặc tình cảm nhân đạo, mà là vấn đề đường lối chính trị trong một giai đoạn lịch sử nhất định dưới chế độ phong kiến. Lê Thánh Tông rút bài học lịch sử từ các triều vua trước đây, muốn củng cố cơ nghiệp vương triều, thì phải quan tâm đến lợi ích của nhân dân, phải thi hành đường lối “thân dân”. Điều đó, một lần nữa lại được đặt ra làm tiêu chuẩn lựa chọn hiền thần. Trong Liệt truyện tạp chí, Lê Thánh Tông đã nhìn thấy sức mạnh của nhân dân có thể lật đổ kẻ cầm quyền nào trái ý dân:
“Cho dân là không thể lo tính công việc từ đầu. Thương Ưởng cứ việc tiến hành biển pháp. Cho trăm họ không đủ cùng nghị luận. Đổng Trác cứ việc thiên đô. Bắt dân cứ phải làm theo ý muốn của riêng mình, công việc của Thương Ưởng, Đổng Trác đều hỏng đều hỏng và thân bị giết. Kết quả ác liệt đều thấy rõ lắm”(8).
Lê Thánh Tông hiểu rằng đường lối “thân dân” sẽ củng cố được chế độ phong kiến và cuộc trị bình sẽ được dài lâu.
Như trên đã trình bày, phương châm đào tạo hiền tài của Lê Thánh Tông dựa trên những yếu tố tích cực của tưởng Nho giáo nhưng luôn nêu cao tinh thần dân tộc. Lê Thánh Tông “là một người tôn sùng Nho giáo, một nhà Lý học theo phái Tống Nho, nhưng ông biết kết hợp tư tưởng Nho giáo, tư tưởng đức trị và lễ trị với tư tưởng pháp trị trên một tinh thần và ý thức dân tộc sâu sắc”(9). Về phẩm chất chính trị, Lê Thánh Tông là người có tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc sâu sắc, với ước vọng và hoài bão về một đất nước thanh bình, thịnh trị. Trên tinh thần đó, Lê Thánh Tông rất chú trọng đến việc chép sử dân tộc và dung tri thức lịch sử để giáo dục truyền thống yêu nước và lòng tự tôn, tự cường dân tộc. Điều này cũng không nằm ngoài phương châm giáo dục của nhà vua. Đại Việt sử ký toàn thư- bộ quốc sử đầu tiên của nước ta đã được biên soạn trên tinh thần đó. Cảm hứng về lòng tự hào lịch sử dân tộc còn được thể hiện qua 58 bài thơ vịnh sử (địa danh và nhân vật lịch sử). Ý thức và cảm hứng dân tộc trước hết thể hiện ở chỗ đề cao hình tượng người anh hùng chống ngoại xâm, từ những nhân vật anh hùng từ truyền thuyết như Thánh Gióng đến những nhân vật anh hùng lịch sử thời Bắc thuộc như Triệu Ẩu, Trưng Vương, Lý Ông Trọng
“Giúp dân dẹp loạn trả thù mình
Chị nhủ cùng em cất nghĩa binh
Tô Định bay hồn vang một trận
Lĩnh Nam mở cõi vững trăm thành”
Nhắc đến một thời quá vãng để con cháu nhớ ơn tiên tổ, phát huy truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc “là nét bút độc đáo trong sáng tác thơ vịnh sử của Lê Thánh Tông. Thơ vịnh sử của ông mãi mãi là những bài ca yêu nước, những khúc ca khải hoàn, nhắc gợi lại một thời lịch sử hào hùng của dân tộc”(10).
Với Cao Hương, Lương Thế Vinh, trạng nguyên đầu tiên triều Lê Thánh Tông giống như người nhà trời được sai xuống phò giúp vua Lê, khi nhắm mắt lại trở về trời, Trạng là khí thiêng song núi chung đúc, nay hết số lại trở về với núi song:
“Khí thiêng đã lại thu sơn nhạc
Danh lạ còn truyền để quốc gia
Khuất ngón tay than tài cái thế
Lấy ai làm trạng nước Nam ta”
Với Nguyễn Trực, bài Điếu Nghĩa Bang Trạng nguyên được viết:
“Nối dòng thi lễ nhà truyền báu,
Tranh giải khôi nguyên bảng chói vàng.”
Như vậy với vị trí của mình, “Lê Thánh Tông sáng tác thơ vịnh sử bao giờ cũng là những bài ca tự hào về nguyên khí đất nước, hiền tài dân tộc”(11).
Lê Thánh Tông cũng luôn hướng về quê cha, đất tổ, về cội nguồn, quê hương. Trong 38 năm cầm quyền, Ông đã có ít nhất 9 lần về bái yết Sơn Lăng. Đặc biệt đối với vùng đất tổ Lam Sơn, mỗi lần về thăm, Lê thánh Tông đều luôn nhắc nhở: “quan viên, kỳ lão phải bảo vệ triệt để, nghiêm cấm chiếm dụng đất đai, bởi đó là đất căn bản, lăng vua không ví như nơi khác được” (12).
2. Những biện pháp chấn hưng giáo dục, khoa cử, đào tạo hiền tài của Lê Thánh Tông
Kế thừa truyền thống hiếu học của dân tộc, ngay từ đầu thời Hậu Lê, các vương triều cũng đã chăm lo việc tìm kiếm nhân tài, mở khoa thi để chọn người làm quan, nhưng chưa thật nề nếp.
Sau khi lên ngôi, với bản chất hiếu học và hiểu biết sâu rộng, Lê thánh Tông nhận thức được tầm quan trọng của trí thức, hiền tài trong sự nghiệp mở mang văn hiến, xây dựng đất nước. Đó là bài học kinh nghiệm quý báu về phép trị nước, là sự trân trọng của bậc “minh quân” đối với “hiền thần”.
Văn bia tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo (1442) trong Văn miếu Quốc Tử Giám vẫn sáng ngời ý tứ cao siêu về phương châm đào tạo và sử dụng hiền tài của Lê thánh Tông:
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp. Vì vậy, các đấng Thánh Đế vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sỹ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ quan trọng với quốc gia trọng đại như thế, cho nên quý trọng kẻ sĩ không biết thế nào là cùng” (13).
“Sự nghiệp trị nước lớn lao của Đế vương không gì cần kíp hơn nhân tài, điển chương chế độ đầy đủ của nhà nước tất phải chờ ở bậc hậu Thánh. Bởi vì trị nước mà không lấy nhân tài làm gốc, chế tác mà không dựa vào hậu Thánh thì đều là cẩu thả, tạm bợ mà thôi, sao có thể đạt tới chính trị phong hóa phồn vinh, văn vật, điển chương đầy đủ” (14).
Với phương châm, mục tiêu giáo dục đào tạo hiền tài đúng đắn, Lê thánh Tông đã có những biện pháp và cách thức hữu hiệu đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, gắn giáo dục với việc đào tạo hiền tài, ngoài mục đích để chọn nhân tài cho đất nước, còn nhằm tạo một tầng lớp trí thức Nho học đông đảo trong xã hội.
Theo tác giả Mai Xuân Hải: “Ngay từ năm Quang Thuận thứ 3 (1462), mùa Hạ, tháng Tư, Lê Thánh Tông định lệ thi Hương, người nào trúng 3 kỳ gọi là Sinh đồ. Đến khoa sau lại vào thi, người nào trúng 4 kỳ thi thi Hương gọi là Hương cống. Cái tên Hương cống, Sinh đồ bắt đầu từ đây”. Sau đó, định lệ 3 năm một lần thi Hội ở Kinh đô, lấy đỗ không căn cứ vào định số, mà căn cứ vào thực lực. Việc đặt quy chế bổ dụng người thi đỗ đã khuyến khích việc học rất có kết quả. Sau đây là một vài khoa thi có đông người thi:
- Khoa Bính Tuất - Quang Thuận thứ 7 (1466), Đại Việt sử ký toàn thư ghi có đến 4.400 người dự thi, lấy đỗ 44 Tiến sĩ.
- Khoa Ất Mùi - Hồng Đức thứ 6 (1475), văn bia Văn Miếu ghi có 3200 người dự thi và lấy đỗ 13 Tiến sĩ.
- Khoa Tân Sửu - Hồng Đức thứ thứ 12 (1481), bia Văn Miếu ghi có hơn 2000 người dự thi và lấy đỗ 43 Tiến sĩ (15).
Số lượng người dự thi đông như vậy chứng tỏ số người đi học trong cả nước là rất đông đảo. Những con số này cho thấy, giáo dục, khoa cử thời Lê Thánh Tông đạt đến đỉnh cao, trước và sau đó không thời nào bằng. Việc thi cử thời Lê Thánh Tông không chỉ ở Quốc Tử Giám mà còn được mở rộng đến các trường phủ, chú ý đến chất lượng giáo dục ở địa phương. Việc lựa chọn học quan trong địa phương cũng được chú ý, đạt tiêu chuẩn và tổ chức thi để lựa chọn. Không chỉ lựa chọn thầy dạy giỏi, mà Vua còn cử các quan ở Hàn lâm viện đi chấm thi Hương ở các tỉnh để đảm bảo lựa chọn được nhân tài. Vì vậy, kẻ sĩ thời Hậu Lê không giống với kẻ sĩ các triều đại trước đó. Kẻ sĩ thời này bao gồm những người làm quan, không làm quan, và phần nhiều đều xuất thân từ nông thôn. Các vị Tiến sĩ, Cống sinh cho đến các ông đồ làng đều gắn với nông thôn, nông dân. Chính môi trường văn hóa này tác động đến tư tưởng, tình cảm, hoạt động xã hội, cúng như trong sáng tác văn thơ của họ. Đây cũng là một trong những biểu hiện của tư tưởng thân dân” trong giáo dục, đào tạo hiền tài của vua Lê Thánh Tông.
Là một ông vua văn hóa, tư chất thông minh, bản thân Lê Thánh Tông cũng là một tấm gương về sự vươn lên trong học tập, về tự học, tự tu dưỡng:
“Trống dời canh còn đọc sách
Chiêng xế bóng chửa thôi chầu”
(Tự thuật)
“Vua tựa trời cao siêu, anh minh, quyết đoán, có hùng tài, đại lược, võ giỏi, văn hay, mà cái học hành của thánh hiền lại đặc biệt, siêng năng, tay không lúc nào rời quyển sách. Các tập kinh sử, các sách lịch, toán, những việc thánh thần, không gì không bao quát, tinh thông” (16).
Cùng với số nhân tài được đào tạo đông đảo và chu đáo, Lê Thánh Tông lập ra Hội Tao đàn, tự mình làm Tao đàn nguyên súy, cùng nhau bàn luận học thuật, trước tác, sách vở và làm thơ. Tác giả Trần Đình Hượu cho rằng, Lê Thánh Tông đã nghĩ đến việc dùng nhân tài làm công tác nghiên cứu, phê duyệt, bình luận, chú thích- đây là một việc chưa từng có trong các triều đại phong kiến trước đó. Vào năm 1467, triều đình tổ chức thi khoa Hoành Từ. Một số người thi đậu khoa đó được vào đọc sách tại Bí thư giám, tức thư viện của nhà vua. Phải chăng vua Lê Thánh Tông đã nghĩ đến một loại công việc chuyên làm về nghiên cứu? Với một ông vua “tay không lúc nào rời quyển sách, chịu khó đọc, ghi chép, nhận xét, lại sai văn thần phê duyệt, bình luận, chú thích thì nghĩ đến thư viện, đến người làm công tác nghiên cứu là rất có khả năng” (17).
Việc làm này cũng đã được Lê Thánh Tông nói đến trong bài thơ Tuyết Cung của mình:
“Hiển nhân trần đại đạo
Ngôn luận chí tinh tường
Thượng hạ đồng u lạc
Ân ba cập vạn phương”
(Cổ tâm bách vịnh)
(Người hiền trình bày đạo lớn. Ngôn luận rất tinh lường. Trên dưới cùng chung nỗi lo niềm vui. Sống ân huệ tràn khắp muôn phương).
Mặc dầu khả năng của nhà vua vượt lên trên các triều thần, lại là ông vua có uy vọng lớn, nói ra là mọi người phải nghe theo, song hình như nhà vua cũng sẵn sàng muốn nghe ý kiến của người dưới, nhất là những lời bàn bạc của các học giáo hiện thần để cùng nhau nhất trí về một cái đạo ích quốc, an dân cho dân tộc chứ không nặng về quyền bính tối thượng của mình. Đây cũng là một bài học hữu ích cho những người làm công tác quản lý giáo dục theo tinh thần đổi mới hiện nay.
Quan tâm đến chất lượng giáo dục, trước hết nhà vua chú ý đến tài liệu học tập cho người học. Để tránh nạn thiếu sách học và người học chỉ chọn học cái đề (vì người đi thi có thể lựa chọn một trong nhiều đề để làm bài thi), nên Lê Thánh Tông đặt ngũ kinh bác sĩ để dạy đủ năm kinh, in đủ ngũ kinh phát cho sinh viên Quốc tử Giám. Lê Quý Đôn cho biết: “Khoảng niên hiệu Hồng Đức, hằng năm phát sách công cho các phú như: Tứ thư, Ngũ kinh, Ngọc đường văn phạm, Văn hiến thông khảo, Văn tuyển và Cương mục, học quan do đấy để giảng dạy, khoa cử do đấy để lấy nhân tài”(18). Hóa ra câu nói đã trở thành chân lý học tập của người đương đại: “không có sách thì không có tri thức” đã được Lê Thánh Tông thực thi như một phương châm đào tạo hiền tài cách đây hơn 5 thế kỷ.
Chú ý đến chất lượng đào tạo, vua Lê Thánh Tông còn đặc biệt lưu ý đến cách ra đề thi. Đề thi các khoa thi luôn thay đổi về nội dung, thể cách, phát huy được tính sáng tạo của người học: “Trong niên hiệu Hồng Đức (1470-1497) thì kinh nghĩa không cứ chương nào, không nệ thiên nào. Học trò nếu không học rộng kinh nghĩa thì không làm nổi: Tứ lục, thơ, phú, có khi ra ở cổ sử, có khi ra ngoài sách, hoặc hỏi về chính sự đương thời”(19). Chẳng hạn, Chế sách thi Đình khoa Quý mùi, năm Quang Thuận thứ tư (1463), Hoàng Thượng hỏi: “Các bậc đế vương, Thánh thần thời thượng cổ thay trời trị dưới đạo đó là rất thuần phác. Cho đến đời sau, thuyết Phật lại dấy lên mới bắt đầu có chuyện bàn về tam giáo, mà long người với trị đạo Phật không còn như xưa. Giáo lý đạo Phật, đạo Lão hết thảy đều mê đời, che lấp nhân nghĩa, cái hại của nó không thể kể xiết mà long người vẫn rất ham mê, rất tin… Đạo của Thánh nhân, lớn thì tam cương, ngũ thường, nhỏ thì tiết văn, đô số đến thiết dụng trong cuộc sống thường ngày mà lòng ham thích của người ta lại chẳng bằng đạo Phật, đạo Lão. Sao lại thế?
Điều cốt yếu để làm nên thịnh trị không ngoài ở chỗ làm sáng tỏ đạo Thánh chính đáng nhân tâm, trừ dị đoan, bỏ tệ xấu, làm việc tốt. Làm được những điều ấy tất có thuật của nó. Sĩ đại phu bác cổ thông tin hãy đem hiểu biết của mình viết ra rõ rang, trẫm sẽ đích thân xem xét” (20).
Chế sách thi Đình khoa thi Ất Mùi năm Hồng Đức thứ 6 (1475), Hoàng thượng hỏi:
“Các bậc Thánh thần thời cổ, trị hóa thịnh vượng ắt khen Nghiêu Thuấn, phò tá tài giỏi thường nói Cao Quỳ. Giả sử trong 242 năm (thời Xuân Thu) chung một long đức với Đường Ngụy liệu có thể thống nhất hết được cục diện chia cắt đó chăng? Trời không đủ cao, đất không đủ dầy, đó là sự vĩ đại của Nho, lễ nghĩa nhờ đó hưng, kỷ cương nhờ đó mà dựng, đó là sức mạnh của Nho. Nhà Triệu trống (lung) Nho chuyên nhất so với Hán Đường thực hơn nhiều lắm, nhưng binh lực trị hiệu không được thịnh bằng lưng ngựa? Trẫm kế thừa đại thống đến nay đã 16 năm, những việc trị nước quan trọng cấp thiết trung thường đắn đo, suy nghĩ cùng bàn bạc với mọi người rồi thi hành vào chính sự… Các người chớ nên phù phiếm, hãy hết sức bày tỏ, thiết tha mong trị. Trẫm đích thân lựa chọn” (21).
Qua các chế sách đình đối trong các khoa thi trên vừa cho thấy kiến thức Nho học uyên bác, thông kinh, thâm sử của Lê thánh Tông, vừa thấy việc lựa chọn nội dung ra đề thi đã cập nhật được những yêu cầu thiết yếu nhất của thời đại, liên quan đến đạo nhân tâm trong từng hoàn cảnh cụ thể của đời sống xã hội, lại vừa đòi hỏi một vốn kiến thức phong phú ở người học. Nếu người học không sối kinh, nấu sử, không sâu rộng kinh nghĩa và không có vốn sống thực tế thì không làm nổi. Phan Huy Chú đã khen: “chọn người cốt lấy học rộng thực tài, không hạn định ở khuôn khổ, mực thước… Bởi thế điển chương được đầy đủ, chính trị ngày càng hưng thịnh”(22).
Quan tâm đến chất lượng đào tạo, Lê Thánh Tông còn lưu ý đến đối tượng dự tuyển và trường thi. Đối tượng dự tuyển các khoa thi thời Hồng Đức có những quy định mới: mở rộng hơn ở kỳ thi Hương, nhưng lại lựa chọn chặt chẽ ở kỳ thi Hội (kể cả với quan viên). Lê Thánh Tông định lệ thi Hương không câu nệ các hạng quan dân đều được dự thi… Người nào đỗ thi Hương cống, năm sau mới được vào thi Hội. Đối với quan viên lúc đầu dù chưa đỗ Hương cống cũng được phép thi Hội. Nhưng sau này (năm 1486), theo lời tâu của Lương Thế Vinh, nhà vua ra lệnh cho họ các quan viên cứ phải theo đúng thể lệ thi Hương của bách tính rồi sau mới được vào thi Hội, không còn ưu tiên như trước nữa (1-473). Như vậy, các khoa thi trong 10 năm cuối thời Hồng Đức không có sự ưu tiên giữa các đối tượng (giữa quan và bách tính) trong thi cử. Mọi người đi thi đều bình đẳng, cốt chọn được người thực tài.
Trường thi thời Lê Thánh Tông cũng có những thể thức riêng: “Trường thi của bản triều mỗi khoa một lần. Xung quanh trường trồng rào tre dày. Trong trường chia làm 4 tầng: Tầng trong nhất là nơi ở của quan Đông khảo, phúc khảo và giám khảo; tầng giữa là nơi ở của quan Đề liệu, Giám thị và các người chấp sự, đều trồng rào dày; hai tầng bên ngoài thì sĩ tử theo từng nhật ký vào làm bài thi. Trong hai tầng này chỉ trồng rào thưa. Nơi thập đạo dựng một nhà tranh để tiện việc thu quyển của sĩ tử. Quy cũ trường thi của ta khác với Trung Quốc”(23).
Như vậy, từ phương châm giáo dục và đào tạo hiền tài đúng đắn và tiến bộ, Lê thánh Tông đã thi hành một loạt chính sách khuyến học, khuyến tài dồng bộ, hiệu quả, như mở rộng trường học, từ lập nhà Thái học đến đặt Giáo thụ ở các châu; khuyến khích việc học, hoàn thiện các chế độ chính sách giáo dục, đưa ra các luật lệ thi cử, cải tiến cách ra đề thi, chính sách các học hàm; dựng bia Tiến sĩ; dành vinh quan đặc biệt cho những người đỗ đạt cao trong khoa cử… nên đã tạo ra được một phong trào tranh đua học tập trong một thời gian khá dài. Trong lịch sử nước ta, rất hiếm có những thời kỳ mà ở các làng, các huyện, các tỉnh lại có những danh gia truyền đời thành tích cao trong giáo dục, khoa cử như dưới thời Lê thánh Tông. Lại cũng hiếm những thời kỳ mà bao nhiêu người được nhà nước đào tạo, phần lớn đều trở thành những người hữu ích, có nhiều đóng góp cho quê hương, đất nước. Đúng như lời Phạm Cẩn Trực (Tiến sĩ năm 1484) đã ca ngợi:
Hoa quốc kính luận đàn chính trị
Hi hi tứ hải hiệu đương xuân.
(Quỳnh cửu ca)
(Rạng rỡ kinh luân nền chính trị. Xuân tràn bốn bể khắp vui chung)
Lịch sử khoa cử Nho học nước ta tính từ thời Lý với khoa thi đầu tiên vào năm Ất Mão (1075) đến thời Nguyễn với khoa thi Hội cuối cùng vào năm Kỷ Mùi (1919), trải qua 844 năm, có tất cả 2898 Tiến sĩ, 46 trạng nguyên, riêng 38 năm triều Lê Thánh Tông đã mở 12 khoa thi, đào tạo được 502 Tiến sĩ, 9 trạng nguyên. Đó là những tri thức bậc cao của dân tộc, những danh nhân văn hóa mà nhân cách và học vấn của họ làm rạng rỡ nền văn hiến của nước nhà như Lương Thế Vinh, Thân Nhân Trung, Ngô Sĩ Liên, Thái Thuận, Hoàng Đức Lương… và hàng nghìn cống sinh, sinh đồ vô danh ở khắp đất nước, góp phần nâng cao mặt bằng dân trí, đưa đất nước đến phồn vinh, thịnh trị.
3. Một số bài học đối với giáo dục, đào tạo hiện nay
Bài học đầu tiên từ kinh nghiệm đào tạo, bồi dưỡng hiền tài của Lê Thánh Tông là phải thực sự coi giáo dục, khoa học là “quốc sách hàng đầu”, xây dựng thành công một xã hội học tập. Đây là chìa khóa đưa đất nước vươn tới giàu mạnh.
Nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã viết: “bằng việc chấn hưng học hành, thiết lập kỷ luật đặc biệt nghiêm trong thi cử, Lê Thánh Tông đã làm cho toàn vương quốc trở thành xã hội học tập”… “Mặt trái của cơ chế thị trường thường làm cho con người việc nuôi dưỡng động cơ, ý chí vươn lên về mặt trí tuệ. Sự khát khao vươn lên về trí tuệ trong Đảng, Nhà nước, đặc biệt trong thanh, thiếu niên hơn lúc nào hết cần được khuyến khích, cổ vũ mạnh mẽ bằng mọi cách. Cả nước học tập, người người học tập. Phải tạo ra một xã hội học tập để vươn tới những đỉnh cao trí tuệ. Đó là bí quyết làm cho nước ta thoát ra khỏi tình trạng của một nước lạc hậu, kém phát triển”(24).
Thứ hai, phải thực sự coi “hiền tài là nguyên khí quốc gia”, có cơ chế, chính sách đồng bộ trong đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng hiền tài.
Đất nước ta không thiếu hiền tài, nhưng vì sao nền kinh tế- xã hội vẫn chậm phát triển? Vì sao nhiều người tài vẫn chưa đem hết tài năng cống hiến cho sự nghiệp chấn hưng đất nước? Vì sao nhiều sinh viên ưu tú nhất sau khi tốt nghiệp vẫn sống và làm việc ở nước ngoài, hiện tượng chảy máu chất xám vẫn diễn ra? Nguyên nhân của tình trạng trên có nhiều, nhưng rõ ràng chúng ta chưa thực sự coi hiền tài là nguyên khí quốc gia như Lê Thánh Tông đã thực hiện.
Việc đào tạo, bồi dưỡng hiền tài (hiểu theo nghĩa rộng) là một trong những chức năng và mục tiêu quan trọng của giáo dục đại học. Tuy nhiên, con số hơn 200 000 cử nhân đại học thất nghiệp hiện nay quả là quá lãng phí, nhức nhối.
Thứ ba, phải nâng cao chất lượng, khắc phục những hạn chế của giáo dục, đào tạo.
Bên cạnh mặt tích cực, phương châm giáo dục và đào tạo hiền tài theo tinh thần Nho giáo của Lê Thánh Tông cũng bộc lộ những mặt trái của nó. Mở nhiều khoa thi, lấy đỗ tiến sĩ nhiều, làm cho văn hóa phát triển rực rỡ, nhưng mặt khác, khi dùng bằng cấp để được bổ dụng vào đội ngũ quan lại đã khuyến khích mọi người đi học bằng mọi cách, một xã hội sính bằng cấp, trọng sĩ hơn trọng nông… Nhà nước thời Lê thánh Tông lấy khoa cử để chọn hiền tài, lấy đạo đức, văn chương để chọn quan lại, nên tạo ra tâm lý sĩ tử đua nhau dùi mài kinh sử, làm văn chương cử tử- thứ văn chương khô khan, dùng khuôn phép định sẵn viết về những nội dung kinh điển. Lối học bát cổ, giáo điều đó đã hạn chế tầm tư tưởng, hạn chế tính sáng tạo, thiếu nhạy cảm và thực tế ở người học. Một xã hội với phương châm giáo dục lấy đạo đức và văn chương làm tiêu chuẩn để lựa chọn hiền tài nên đã biến thành một xã hội trọng văn mà coi thường thực nghiệp khác.
Những hạn chế trên là tất yếu ở thời Hồng Đức, nhưng lại là bài học quý báu trong công tác giáo dục đào tạo hiện nay. Chúng ta đang phấn đấu xây dựng một xã hội hội học tập, nhưng phải là thực học, thực tài. Thời gian qua, do nhiều nguyên nhân, giáo dục đào tạo nước ta bên cạnh những thành tựu to lớn, cũng bộc lộ những hạn chế, yếu kếm chậm khắc phục, thậm chí có mặt ngày càng trầm trọng. Những mặt trái của chế độ khoa bảng Nho học mà hơn 500 năm trước Lê Thánh Tông đã cảnh báo, nay vẫn là căn bệnh trầm kha của giáo dục nước nhà. Chương trình giáo dục - đào tạo trong các cấp học ở nước ta hiện nay vẫn nặng về lý thuyết, ít tính thực hành. Phương pháp học tập của học sinh, sinh viên vẫn còn theo kiểu “tầm chương, trích cú”. Nạn chạy theo bằng cấp, bằng giả, học giả… vẫn còn khá nặng nề…
Thứ tư, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, gìn giữ, phát huy nền văn hóa dân tộc.
Công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu, rộng. không chỉ đối với phương Bắc mà cả phương Tây, phương Đông… Bài học sâu sắc mà thời Lê Thánh Tông đã để lại là phải biết tiếp thu tinh hoa văn minh nhân loại để làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc, hội nhập, nhưng không hòa tan. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bài học này cần được quán triệt sâu sắc hơn trong xây dựng mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục các cấp học.
Nhìn lại chất lượng giáo dục hiện nay, có lúc, có nơi còn xem nhẹ việc giáo dục văn hóa, truyền thống dân tộc, giáo dục đạo đức, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân cho người học. Tình trạng thế hệ trẻ học sinh, sinh viên không thích tìm hiểu, ít hiểu biết lịch sử, văn hóa, truyền thống cội nguồn dân tộc, quê hương, chạy theo lối sống thực dụng… đang là thực tế đáng báo động. Trong chương trình giáo dục phổ thông, các môn khoa học xã hội như: Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân… đang bị xem nhẹ, thậm chí có lúc bị đẩy xuống vị trí “môn học phụ”.
Kỷ niệm 520 năm ngày mất của Vua Lê Thánh Tông (1497-2017) cũng là dịp trường Đại học Hồng Đức, trường Đại học đầu tiên của xứ Thanh tròn 20 tuổi (1887-2017). Xứng danh với tên hiệu của Lê Thánh Tông, mỗi cán bộ, giảng viên và sinh viên của nhà trường đang kế thừa, phát huy “đạo học” thời Hồng Đức, những kinh nghiệm, bài học quý báu trong việc đào tạo, bồi dưỡng hiền tài của Lê Thánh Tông, thực hiện sứ mạng của nhà trường: “Đào tạo nguồn nhân lực đa lĩnh vực, thích ứng với những thay đổi của kinh tế thị trường; nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, phục vụ phát triển kinh tế- xã hội của Thanh Hóa và cả nước”(25).
Tài liệu tham khảo
[1]. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb KHXH, HN, 1992, tr.160.
[ 2]. Sử thần triều Lê, Đại Việt sử ký toàn thư (Toàn thư), bản dịch của Nxb KHXH, HN, 1993, tr. 336.
[3]. Insun Ju, Luật Hồng Đức và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII, Nxb KHXH, HN, 1994.
[4]. Phan Ngọc, Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, HN, 1998, tr.246.
[5]. Nhiều tác giả, Văn học Việt Nam thế kỷ X- Nửa đầu thế kỷ XVIII, Nxb Giáo dục, HN, 1977.
[6]. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, sđd, T 2, tr. 69-70.
[7,8]. Nhiều tác giả, Văn học Việt Nam thế kỷ X - Nửa đầu thế kỷ XVIII, sđd.
[9]. Phan Huy Lê, Lê Thánh Tông (1442-1497), in trong tập Lê Thánh Tông (14442-1497) Con người và sự nghiệp, Nxb ĐHQG, HN, 1997, tr 18.
[10, 11]. Bùi Duy Tân, Vị trí của Lê Thánh Tông trong việc khai sáng thơ vịnh sử nôm, in trong tập Lê Thánh Tông (1442-1497) Con người và sự nghiệp, Nxb ĐHQG, HN, 1997, tr. 412-414.
[12]. Hà Mạnh Khoa, Lê Ngọc Tạo, Lê Thánh Tông với quê Thanh, in trong tập Lê Thánh Tông (14442-1497) Con người và sự nghiệp, Nxb ĐHQG, HN, 1997, tr. 56.
[13]. Văn bia Tiến sĩ năm Nhâm Tuất, do Thân Nhân Trung soạn, Tuyển tập văn bia Hà Nội, Nxb KHXH, HN, 1978, tr.35.
[14]. Văn bia Tiến sĩ do Đỗ Nhuận soạn, Toàn thư, sđd, T. II, tr.492.
[15]. Toàn thư, Sđd, tr 219.
[16]. Toàn thư, Sđd, T. 2, tr. 386.
[17]. Nhiều tác giả, Văn học Việt Nam thế kỷ X- Nửa đầu thế kỷ XVIII, sđd.
[18]. Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, Nxb KHXH, HN, 1997, T.II, tr 322.
[19, 20, 21,22]. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, sđd, T. II.
[23]. Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, Sđd, tr. 345.
[24]. Lê Khả Phiêu, Bài phát biểu, in trong tập Quốc triều hình luật, những giá trị lịch sử và đương đại, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, 2008, tr.13.
[25]. Trường Đại học Hồng Đức, Sứ mạng, mục tiêu chất lượng, 2016.
(Tham luận tại hội thảo quốc gia “Cải cách pháp luật và xây dựng bộ máy Nhà nước dưới triều vua Lê Thánh Tông – Những giá trị lịch sử và đương đại”)
[1] Trường Đại học Hồng Đức.